HOẠT ĐỘNG “SINH” TRONG XÃ HỘI MỸ

HOẠT ĐỘNG “SINH” TRONG XÃ HỘI MỸ

LTS: Cách nay gần 25 năm, bài viết nầy đã được Nội san Liên Nghĩa ấn hành và phát hành tại Chicago vào tháng 12-1984. Bài nầy đã được viết cho anh chị em Nghĩa Sinh đã sống tại Hoa Kỳ năm 1984. Vì thế xin đọc bài nầy với ba khác biệt: Thời gian, không gian và đối tượng:

· Thời gian: viết vào tháng 12-1984

· Không gian: viết tại HK

· Đối tượng: viết cho NS hải ngoại.

Xin mời anh chị em NS khắp nơi cùng đọc trong tinh thần "ôn cố tri tân."

 

LỜI NỐI KẾT

Trong bài trước, chúng tôi đã có dịp trình bày về lý tưởng “NGHĨA” trong văn hóa Việt để tìm hiểu những tương quan mật thiết giữa lý tưởng Nghĩa Sinh và truyền thống văn hóa Việt Nam. Trong bài này, chúng ta thử cùng nhau tìm hiểu về hoạt động "SINH" của tổ chức Nghĩa Sinh trong xã hội Hoa Kỳ.

NHỮNG ĐẶC TÍNH CĂN BẢN CỦA XÃ HỘI MỸ

1. Hữu Thần:

Xã hội Mỹ là một xã hội hữu-thần. Chúng ta có thể chứng minh điều này bằng cách nhìn vào lịch sử Hoa Kỳ, các văn kiện pháp lý hiện hành, và quan sát những gì đã xảy ra tại xã hội Mỹ. Những người Âu Châu đầu tiên đến Hoa Kỳ đều là những người theo Thiên-chúa-giáo. Những người Công giáo từ Tây Ban Nha đến Mỹ sau năm 1492, những người Tin-lành, “Pilgrims” và “Puritans” đến Mỹ sau đó với niềm tin-tưởng vô-song nơi tạo-hóa.

Bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ đã đề cập đến tạo-hóa. Hiến pháp Hoa Kỳ bảo đảm tự do tôn giáo. Những lời hứa đọc trong lúc thượng kỳ có câu: “MỘT QUỐC GIA DƯỚI QUYỀN CỦA THƯỢNG ĐẾ” (“ONE NATION UNDER GOD”). Trên các đồng Mỹ kim có câu: “CHÚNG TÔI TIN TƯỞNG VÀO THƯỢNG ĐẾ” hay “TRONG CHÚA CHÚNG TÔI TÍN-NHIỆM NHAU” (“IN GOD WE TRUST”). Và đoạn kết trong lời tuyên thệ nhậm chức của tổng thống Hoa kỳ có câu: “XIN THƯỢNG ĐẾ GIÚP TÔI HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ” (“SO HELP ME GOD”).

2. Tự lập:

Tinh thần tự lập của người Mỹ được thể hiện ngay khi những người di dân đầu tiên đặt chân đến Mỹ châu. Ông John Smith đến Mỹ vào năm 1607 đã chủ trương mọi người di dân phải tự lập nuôi thân. Theo ông, “Không làm thì không có ăn!” (“Work or starve!”). Nhờ tinh thần tự lập John Smith chủ trương mà ông đã cứu sống được đa số người di dân đến định cư tại Jamestown, Virginia. Nhóm di dân thứ hai đến Plymouth, Massachusetts vào năm 1620 cũng với tinh thần tự lập. Sau hai tháng dài lênh đênh trên biển cả, những người di dân từ Hoà Lan đến Mỹ cùng ký với nhau một bản thỏa ước “Mayflower Compact” để thành lập chính phủ cho chính mình và nhờ nỗ lực tự lập của mỗi người để xây dựng đời sống mới tại Mỹ châu.

Tinh thần tự lập của người Mỹ còn được thể hiện rõ ràng hơn trong các sinh hoạt gia đình của họ. Từ lúc lọt lòng mẹ, trẻ em đã được cho nằm riêng rẽ trong nôi và có phòng riêng dành cho các em. Cha mẹ người Mỹ ít khi bế con. Đi đâu xa, họ để em bé lên một chiếc xe nôi rồi đẩy đi chứ không ẵm bế em như người mình. Khi đến 18 tuổi, đứa trẻ trưởng thành bắt đầu nhập cuộc, tự lập nuôi thân. Có em thì đi rửa chén, có em thì đi bán báo, có em thì đứng bán cà phê… Các phụ huynh Hoa Kỳ thường hãnh diện khi thấy con mình tự lập càng sớm càng tốt mà không bận tâm là con mình làm việc gì: bán báo, rửa chén, hay đứng bán hàng. Theo họ, chỉ có người xấu thôi chứ việc gì cũng tốt cả.

3. Bình Đẳng:

Trong phần mở đầu câu Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ ngày 4 tháng 7 năm 1776, những người khai sáng Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tin tưởng rằng mọi người sinh ra đều được bình đẳng trước mặt Tạo-Hóa: “We hold these truths to be self-evident: That all men [humans] are created equal; that they are endowed by their Creator with certain unalienable rights; that among these are life, liberty and the pursuit of happiness.” (Declaration of Independence, July 4, 1776).

Vì chủ trương bình đẳng như vậy cho nên chúng ta không lạ gì trong gia đình Mỹ con cái gọi bố mẹ bằng tên gọi như John, Mike, Mary thay vì thưa ba, thưa má. Vì chủ trương bình đẳng như vậy nên người Mỹ không quan trọng hóa các nghi thức, như một viên chức ký tên vào văn thư mà không cần đóng mộc đỏ. Thẻ Thông Hành của dân Mỹ chẳng cần ai phải ký tên. Ngược lại, chính người có tên trên Thẻ Thông Hành tự ký tên “mình” để chứng nhận cho “mình.” Tên Ronald Reagan, John Paul VI, Elizabeth II… thường được viết trên báo chí không để chức vụ Tổng Thống, Giáo Hoàng, hay Nữ Hoàng phía trước.

NHỮNG ĐẶC-TÍNH CĂN-BẢN CỦA NGHĨA SINH

1. Hữu Thần:

Nghĩa Sinh là một tổ chức hữu thần. Nghĩa Sinh đặt tin tưởng vào Tạo Hóa (Creator). Điều I của Mười Điều Tâm Niệm Nghĩa Sinh đã ghi: “Nghĩa Sinh kính tôn Tạo Hóa, yêu mến tha nhân, phụng sự tổ quốc…” Nghĩa Sinh quan niệm mỗi tôn giáo là một bông hoa trong vườn hoa của Tạo Hóa, các tôn giáo đã và đang đóng góp tích cực trong việc xây dựng một xã hội lành mạnh về phương diện luân lý, đạo đức và thanh hóa. Tôn giáo nào cũng cổ võ mọi người làm lành lánh dữ, khuyến khích mọi người nâng đỡ thương yêu nhau. Mỗi tôn giáo còn là một động tử đưa ta đến chân thiện mỹ. Vì vậy trước và sau các buổi hội họp, các lớp huấn-luyện, các ngày trại của Nghĩa Sinh đều có phút tinh thần. Nghĩa Sinh tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi thành viên: Phật giáo, Lão giáo, Công giáo, ngay cả những những thành viên chỉ biết có thờ cúng ông bà tổ tiên mà thôi. Nghĩa Sinh chọn “bông hoa” nào cũng được – hoa Mai, hoa Đào, hoa Hồng… Nghĩa Sinh chọn “động tử” nào cũng được – người đi xe đạp, kẻ đi bằng thuyền, người thì xe hơi, hay máy bay… Thành viên Nghĩa Sinh khắp mọi nơi cứ tự nhiên “giữ đạo” của mình một cách chân thành và sốt sắng. Tổ chức Nghĩa Sinh đã mời các vị Tuyên úy Phật giáo, Công giáo, Tin lành hướng dẫn đời NS trong sống tinh thần hội đoàn.

2. Tự Lập:

Châm ngôn của Nghĩa Sinh được ghi trên huy hiệu Nghĩa Sinh: “Tự Giác, Tự Giải, Tự Giúp.” Tự nhận diện để biết sở trường và sở đoản của mình. Biết ưu để giữ, biết khuyết để tránh. Biết tự đặt ra những giải quyết những khó khăn trở ngại trong cuộc sống. Không ỷ lại vào người khác, biết tự mình giúp mình thực hiện những việc dự định trong khả năng và tầm tay của mình một cách thực tế. Một trong những lời hay ý đẹp thường được lặp đi lặp lại trong các trại huấn luyện của Tổ Chức Nghĩa Sinh là: “Tương lai ta trong tay ta.” Nếu mỗi người trong xã hội đều biết tự lập thì xã hội sẽ đồng tiến và vững tiến.

Tự lập trong Nghĩa Sinh không có nghĩa là biến mỗi cá nhân trở thành một hoang đảo. Nghĩa Sinh vấn đề cao những tương giao thân thiện và hợp tác giữa người với người, giữa Nghĩa Sinh với các tổ chức bạn, giữa quốc gia này với các quốc gia khác. Diễn trình hợp tác trong Tổ Chức Nghĩa Sinh đã ghi: “Gặp gỡ => đối thoại => thông cảm => hợp tác => xây dựng => phát triển.”

3. Bình Đẳng:

Nghĩa Sinh chủ trương mọi người bình đẳng trước Tạo-Hóa. Vì thế, Nghĩa Sinh rất tự nhiện khi tiếp xúc và phục vụ đồng bào mọi giới, giàu cũng như nghèo. Nghĩa Sinh nhận diện xã hội còn nhiều bất công: người giàu càng giàu hơn, người nghèo càng nghèo hơn; kẻ có thế lực thì có tiếng nói trong xã hội, người cô thế thì luôn luôn chịu thiệt thòi. Vì thế, dù ở Việt Nam hay ở Hoa Kỳ, Nghĩa Sinh vẫn muốn làm gạch nối giữa giới giàugiới nghèo; giữa chính quyềndân chúng. Những hội viên Nghĩa Sinh trong thập niên 60 và 70 đã từng sống chung dưới cùng mái nhà với những trẻ em bị xã hội hất hủi như bụi đời, du đãng, cô nhi tại các trung tâm Nghĩa Sinh Hùng Vương, Trần Bình Trọng, Chánh Hưng, v.v… Trong khi đó, những hội viên Nghĩa Sinh này đã được mời gặp Tổng Thống, Tổng Trưởng, Đô Trưởng… trong chính phủ. Tại Hoa Kỳ, Nghĩa Sinh cũng vẫn chủ trương tương tự như vậy. Vẫn thường xuyên liên lạc và gặp mặt các vị Dân Biểu, Nghị Sĩ, Thị Trưởng, Thống Đốc, Tổng Thống, nhưng đồng thời cũng sống chung với các trẻ mồ côi, những người sa cơ lỡ bước, gia đình các thuyền nhân để cùng cảm nhận những vui buồn của đồng bào ruột thịt.

HOẠT ĐỘNG “SINH” TRONG XÃ HỘI MỸ

Như vậy, chủ trương hoạt động của tổ chức Nghĩa Sinh lúc ở quê nhà vẫn còn phù hợp với quan niệm và sinh hoạt xã hội Hoa Kỳ. Có khác chẳng là chúng ta phải thay đổi về hình thức giống nhau như những nhận xét và đề nghị của Trưởng Vũ Văn Lâm (Liên Nghĩa 9-84) và nhận xét của Trưởng Hồ Văn Xuân Nhi (Liên Nghĩa 6-84). Hiện tại, mỗi phương đoàn Nghĩa Sinh đều tự lập về hoạt động, hành chánh và tài chánh dưới sự hướng dẫn và hỗ trợ tinh thần của Trung ương Nghĩa Sinh. Làm thế nào để mọi phương đoàn vẫn sống và hoạt động giúp ích dựa vào nhu cầu công tác của từng địa phương. Nói một cách khác, Nghĩa Sinh các phương đoàn hiện tại đang tích cự góp phần xây dựng xã hội. Điển hình là Nghĩa Sinh Illinois vẫn sống và vẫn tiếp tục bảo trợ đồng bào tỵ nạn từ các trại Đông Nam Á sang định cư tại Hoa Kỳ (27 đồng bào đã được Nghĩa Sinh Illinois bảo trợ đến Chicago tháng 7, 8, 9 năm 1984). Tương tự như vậy, NS vùng Hoa Thịnh Đốn đang hăng hái tham gia các công tác văn hóa, giáo dục, và xã hội (xin đọc bài tường thuật của Trưởng Hoàng Thị Xuân Hồng trong Liên Nghĩa số này – số 12-84). Nghĩa Sinh Pháp vẫn tiếp tục giúp đỡ các bệnh nhân trong bệnh viện tại Paris; Nghĩa Sinh Anh vẫn tiếp tụ giúp đỡ đồng bào tỵ-nạn kế nhập vào đời sống mới tại Luân Đôn, dù không được sự yểm trợ tài chánh của văn phòng Trung Ương hay của chính quyền địa phương.

ĐÔI LỜI KẾT

Dù có rất nhiều khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán, và lịch sử giữa Việt Nam và các quốc gia tại Mỹ Châu, Âu Châu, Úc Châu, nhưng các Phương Đoàn Nghĩa Sinh tại mỗi địa phương đã và đang cố gắng thích nghi để tham gia các hoạt động “Sinh” trong xã hội Hoa Kỳ nói riêng và ở các quốc gia Âu Mỹ nói chung.

 

- Nguyễn Trung Hiếu

Viết cho Nghĩa Sinh hải ngoại

Ngày 9 tháng 12 năm 1984

 

 

Nguyễn Trung Hiếu
(10/11/2008 - 996 lượt xem)

Các bài viết khác cùng tác giả Nguyễn Trung Hiếu
2 - Lý Tưởng NGHĨA Trong Văn Hóa VIỆT (10/11/2008 - 997 lượt xem)
4 - Tình Thân Hữu Trong Nghĩa Sinh (11/09/2008 - 1106 lượt xem)
5 - Tâm Thư Cho Em (18/08/2008 - 862 lượt xem)