Năm mới nói chuyện về Tết Nguyên Đán

Năm mới nói chuyện về Tết Nguyên Đán
 
Bước sang năm mới Dương lịch thì tâm hồn của những người con dân Đất Việt dù ở bắt cứ nơi đâu cũng bắt đầu nôn nao, nô nức, rộn ràng đón mừng dịp lễ hội lớn nhất trong năm: Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ Truyền, hay chỉ đơn giản là Tết).
 
1.  Từ ngữ
 
“Tết” là chữ Nôm, được mượn từ chữ “Tiết” ()  của Hán Việt mà đọc trại thành “Tết”. Còn “Nguyên Đán” (元旦) là hai chữ Hán Việt. “Nguyên” () có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai; còn “Đán” () có nghĩa là buổi sáng sớm. Nếu đọc đúng theo ngữ pháp Hán Việt thì phải đọc là “Nguyên Đán Tiết” (元旦節). Tết Nguyên Đán được người Trung Quốc ngày nay gọi là “Xuân tiết” (春節), “Tân niên” (新年) hoặc “Nông lịch Tân niên” (曆新年).
 
2. Nguồn gốc
 
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng Giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng Chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng Mười Một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau.
 
Đến đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thuỷ Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng Mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng Giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa. Vì chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc (nằm trong thế giới Hán hoá) nên Việt Nam cũng có Tết Nguyên Đán vào tháng Giêng. Hiện nay dân chúng chỉ ăn tết vài ngày đầu tháng Giêng (ba ngày Tết, bảy ngày Xuân).
 
3. Tên gọi
 
Khi chưa có sự du nhập của văn hoá Tây phương thì Việt Nam theo cách tính lịch của Trung Quốc, ta hay gọi là Âm lịch (tính theo chu kỳ mặt trăng). Tên gọi của năm Âm lịch không gọi theo số như Dương lịch (tính theo chu kỳ mặt trời) mà dùng tên ghép gồm hai chữ. Chữ đầu là một trong 10 thiên can (Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý). Chữ thứ nhì là một trong 12 địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão hay Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Mười hai địa chi là tên 12 con vật. Vì bội số chung của 10 (thiên can) và 12 (địa chi) là 60, nên cứ 60 năm thì hết một chu trình kết hợp giữa các thiên can và địa chi. Cho nên, cứ 60 năm thì tên gọi các năm lặp lại như cũ.
Theo chu trình thì năm nay là sự kết hợp thứ 29 giữa thiên can Nhâm ( : thuỷ dương) và địa chi Thìn ( : con rồng). Bởi thế, Âm lịch năm nay được gọi là năm Nhâm Thìn (壬辰).
 
(Còn tiếp)
 
- Nguyễn Văn Hiệp
Nguyễn Văn Hiệp
(15/01/2012 - 745 lượt xem)