Bàn về Lễ Độc Lập Hoa Kỳ: Ngày 4 tháng 7

 

Bàn về Lễ Độc Lập Hoa Kỳ: Ngày 4 tháng 7

 

        (.......)

 

        Căn cứ vào tác phẩm nổi tiếng "Un Jour De La Vie De L’Amerique" do nhà xuất bản Robert Laffont tại Pháp ấn hành, tổng hợp từ bài viết của hơn 200 ký giả ngoại quốc và trên 250.000 tấm ảnh độc đáo vô cùng giá trị. Nhờ vậy chúng ta mới có cơ hội hiểu được phần nào về ‘một đất nước trong một lục địa‘ có lãnh thổ rộng lớn tới 9.629.091 km2 (chỉ thua

Nga, Canada, Trung Cộng) với tổng sản lượng quốc gia gấp trăm ngàn lần nhiều nước khác trên thế giới. Hiện dân số Mỹ 295.734 triệụ người, đông nhất vẫn là da trắng (chiếm 77% ), da đen (12 %) , gốc La Tin như Y Pha Nho, Bồ Ðào Nha (8%) .. còn lại là thiểu số người gốc Châu Á, Polynésien và Da Ðỏ. Có hơn 73,5% người Mỹ sống tại các đô thị lớn nhỏ. Los Angeles nằm trong tiểu bang California, là một trong những siêu đô thị hiện nay của Hoa Kỳ, xuất phát từ cái tên do người Mễ đặt ‘El Pueblo De Nuestra Senora Le Reina De Los Angeles De Porcianculal‘, hiện có trên 12 triệu dân nói lẫn lộn tiếng Tây Ban Nha và Anh Ngữ. Trong khi đó New York lại là thành phố lớn nhất của Mỹ, cũng là đô thị có nhiều người Do Thái sinh sống nhất trên thế giới, sử dụng tiếng Yiddish (Do Thái cổ), loại cổ ngữ chỉ còn xài ở Trung Ðông mà thôi.

        Toàn quốc có 15.132 phi trường lớn nhỏ, trong đó Chicago và Dallas Fort Worth được coi là lớn nhất thế giới, cứ 14 giây là có một phi cơ hạ hay cất cánh nhưng có điều kỳ lạ là người Mỹ không thích xuất ngoại bằng máy bay, nên trung bình hằng năm có chừng 15 triệu người ra nước ngoài. Về phương tiện giao thông, Hoa Kỳ đứng đầu thế giới với 6 triệu cây số xa lộ, 150 triệu xe ô tô đủ loại và 30 triệu xe vận tải hạng nặng, xuôi ngược khắp nước hàng ngày, qua vận tốc ấn định từ 88-105 km/giờ.

            Kỹ nghệ sản xuất xe hơi của Mỹ vẫn đứng đầu thế giới cho dù mọi người xài cả xe Nhật lẫn Châu Âu. Thủ đô ô tô của Mỹ là
Detroit thuộc tiểu bang Michigan nằm kế Ngủ Ðại Hồ. Một người di dân Pháp tên Antoine De La Mothe Cadillac đã lập ra thành phố này. Vì vậy để tưởng nhớ tới ông, các công ty sản xuất xe hơi của Mỹ, mới đặt tên cho một loại xe đắt tiền nhất do Hoa Kỳ chế tạo là ‘Cadillac‘. Tới nay ba đại công ty Géneral Motors, Ford và Chryslev vẫn đứng đầu cả nước và thế giới về mức sản xuất xe, qua sự hổ trợ của nhiều công ty nhỏ . Ngoài ra Hoa Kỳ còn là cường quốc dẫn đầu thế giới về điện nguyên tử, máy bay, máy điện toán, thuốc lá, bắp, thịt bò, than đá..

            Tuy người Mỹ sống rất thực tế nhưng hầu hết đều tham gia các công tác từ thiện với số tiền góp và tậng phẩm hằng năm gần 100 tỷ mỹ kim. Tóm lại không có ai dám nói rằng mình biết hết chuyện nước Mỹ vì đời sống ở đây gần như thay đổi từng giây từng phút, khó lòng dự đoán được. Với Người Việt Tị Nạn Cộng Sản qua 36 năm lưu vong, nay đã để lại một dấu ấn tốt đẹp và đậm nét trong những trang sử của Hoa Kỳ. Ðó là sự hình thành các cộng đồng Người Việt Quốc Gia mà biểu tượng là ‘Lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ‘ đã được nhiều tiểu bang công nhận, tại các thành phố lớn như San José, Los Angeles, Houston, Wasington DC, New York.. và nhất là Little Sài Gòn, thủ đô của Người Việt Hải Ngoại..

            Tóm lại, người Mỹ không cần biết tới đời tư của bất cứ cá nhân nào khi họ dấn thân vào con đường chính trị, miễn sao các cấp lãnh đạo, mang cho dân chúng có đủ cơm ăn áo mặc, đất nước thanh bình, uy tín của Hoa Kỳ được tôn trong khắp thế giới là đủ rồi.

            Ngoài các vấn đề trên, đối với người Mỹ cho dù là người địa phương hay di dân, trong thâm tâm bất cứ ai cũng đều mang một sự hãnh diện với thế giới, qua các công trình kiến tạo của tiền nhân suốt 200 năm lập quốc : phố xá khang trang, nhà cửa đồ sộ, thư viện đầy ắp báo chí sách vở, chợ búa sạch ngon, bến tàu phi trường tấp nập rộn rịp về cảnh sắc lẩn tình người. Nói chung, dù dân tộc Hoa Kỳ chỉ mới lập quốc nhưng hầu hết đều có lễ nghĩa đạo đức, lương thiện và chan hòa tình thương không biên giới (trong đó sự cưu mang hơn 3 triệu người VN Tị Nạn Cộng Sản, từ tháng 5-1975 tới nay), nên đã nhanh chóng thu phục được nhân tâm và đứng đầu thế giới về mọi mặt.

            Người Việt tị nạn CS chúng ta may mắn được sống hạnh phúc trên đất Mỹ, với đầy đủ các quyền lợi đã qui định từ Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập và Nhân Quyền, mà đâu mấy ai hiểu rõ là Tiền Nhân đã đổi lấy nó bằng máu và mạng sống trước bạo lực. Bởi vậy để đền đáp phần nào tấm lòng nhân đạo mà Hoa Kỳ đã rộng mở , chúng ta phải biết ‘ nhập gia tuỳ tục ‘, làm tốt bổn phận công dân và cố gắng phát huy truyền thống tinh hoa của Dân Tộc Việt, để không hổ danh là con Hồng Cháu Lạc dù đã có quốc tịch Mỹ hay đang sống tạm nơi xứ người.

Ý NGHĨA NGÀY ÐỘC LẬP HOA KỲ 4 THÁNG 7

            Sau thời gian dài chiến đấu đẳm máu với thực dân Anh. Cuối cùng 13 tiểu bang trong Liên Hiệp Anh ly khai, cũng đã dành được Ðộc Lập cho xứ sở, mà ngày nay chúng ta trang trọng đón mừng hằng năm. Ðó là ngày 4-7-1776 , lần đầu tiên ‘BẢNG TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN‘ được công bố trước quốc dân đồng bào..

            Cũng từ đó, ách nô lệ của Anh tại đây chấm dứt. Ðể tạo nên niềm tự hào của một dân tộc có độc lập và tự do thật sự, năm 1789 Webster Noah là người đầu tiên ấn hành quyển Tự Ðiển Tiếng Mỹ, nói lên ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Cùng lúc Benjamin Franklin cũng đã phát minh ra những mẫu tự đơn giản. Nhận thức được tương lai của đất nước, sẽ mở rộng bờ cỏi và đón  nhận nhiều sắc dân tới lập nghiệp tại Hiệp Chũng Quốc với nhiều nền văn hóa khác nhau. Bởi vậy Noah Webster càng chú trọng rất nhiều tới ngôn ngữ học bằng cách phát hành nhiều loại sách giáo khoa, giảng dạy về ngữ pháp, chính tả.. tới nay vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong dời sống người Mỹ.

            Sau này có M.Guffey hợp tác với Noah, đã bộc lộ tinh thần ái quốc và đạo đức, qua các tác phẩm được phổ biến, làm cho mọi người cảm động và càng ý thức rõ hơn bổn phận trách nhiệm của một công dân đối với xã hội và quốc gia của mình. Tuy ngày nay theo bánh xe văn minh của nhân loại, những công trình của các bậc tiền nhân đã bị lỗi thời với thời gian nhưng tên tuổi của ông vẫn còn nguyên vẹn. Thật vậy, đối với lịch sử Hoa Kỳ, chính Noah Webster đã có công tạo nên Ngôn Ngữ riêng cho người Mỹ, dù nó có nguồn gốc từ tiếng Anh mà thật sự không phải là tiếng Anh nguyên thủy. Trường hợp này cũng tương tự như Ngôn ngữ Việt
Nam, có nguồn gốc từ Hán Tự và La Tinh nhưng không phải là chữ Hán hay La Tinh gốc.

            Cùng với chiều hướng Ðộc Lập trên, tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ là Washington đã phát biểu ‘Hiệp Chủng Quốc bắt nguồn từ 13 thuộc địa của Anh nhưng Nay Là Quốc Gia Ðộc Lập. Vậy tai sao chúng ta cần gì phải quay về với Châu Âu hay Luân Ðôn để bắt chước họ qua đợi chờ xin xõ phê chuẩn. Trong đó sự học hỏi trên, xét cho cùng, cũng chỉ là sự quê mùa, lỗi thời‘. Hởi ôi nếu các nhà lãnh đạo VN bao đời, có được một phần tư tưởng độc lập như TT Mỹ, thì chắc chắn đất nước chúng ta ngày nay đâu phải đắm chìm trong vũng bùn ô nhục tồi tệ và thua kém nhân loại.

            Ðể đổi lấy nền Ðộc Lập cho đất nước Hoa Kỳ ngày nay, nhiều đại biểu của 13 Tiểu Bang ly khai đã gục ngả trước súng đạn của thực dân Anh. Thomas Jefferson được đề cử soạn thảo Bảng Tuyên Ngôn Nhân Quyền cho Hiệp Chũng Quốc, trong lúc cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn giữa Anh-Mỹ. Thế rồi sau ba ngày tranh luận gay gắt, giữa các đại biểu trong phòng họp, cuối cùng hội nghị cũng đã bỏ phiếu, thông qua và chấp thuận Bảng Tuyên Ngôn Ðộc Lập trên, vào ngày 2-7-1776.

            Ðiều bi thảm mà tới nay con cháu ít ai biết tới. Ðó là vào ngày 4-7-1776 công bố nền độc lập của Hoa Kỳ, được diễn ra trong thầm lặng, chết chóc, máu lệ khổ đau. Bởi thực dân Anh đâu có để yên cho những người chủ xướng, nên ra tay triệt hạ tất cả ai lúc đó dám nói tơi Ðộc Lập cho Hoa Kỳ. Theo sử liệu, có 56 người đã ký vào Bảng Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Ðộc Lập Mỹ. Tất cả đều là sĩ phu trí thức đương thời, biết trước hậu quả về hành động của mình nhưng bất chấp mạng sống cá nhân và gia đình, chấp nhận hy sinh cho đại nghĩa dân tộc, đất nước.. Trong số này có Francis Hopkinson quê
New Jersey là một tài hoa hiếm có. Ông chính là tác giả của Lá Quốc Kỳ Mỹ được lưu hành và tồn tại tới ngày nay. Tóm lại tất cả những người trong cuộc đều có gia đình, lớn tuổi nhất là Benjamin Franklin (70 tuổi) và ba người chỉ mới 20 tuổi.

            Ngay khi phát giác được Bảng Tuyên Ngôn Ðộc Lập, Thực dân Anh lồng lộn điên cuồng, ra lệnh truy tìm và hạ sát những người có tên trong đó. Ngoài ra còn treo giá 500 Bảng Anh cho ai chỉ điểm, phát giác họ. Cuối cùng Anh tuyên bố Treo Cổ Tất Cả. Do sự khủng bố trên, nên hầu hết những người liên hệ tới Bảng Tuyên Ngôn, lớp chết, lớp ở tù. Nhiều người bị thương tật khốn khổ vì sự tra tấn đánh đập dã man của kẻ thù, khiến cho nhà tan cửa nát, gia đình ly tán. Trong số ít ỏi sống sót sau này,hai người đã trở thành Tổng Thống Mỹ là John Adams và Thomas Jefferson.

            Cái giá độc lập của Hoa Kỳ là thế đó, mà những người khai sinh ra nó, phải đổi bằng mạng sống, máu lệ đem về. Cho nên các thế hệ sau ai nấy đều vô cùng cảm kích và trang trọng noi theo truyền thống yêu nước của tổ tiên mọi thời. Ðó là kết quả của quốc gia Hoa Kỳ ngày nay, một miền đất tạp chũng nhất trên thế giới,lại là đệ nhất siêu cường, một xứ sở tự do cá nhân nhưng ai cũng biết dừng lại trước giới hạn của mình, đối với quyền lợi chung của Tổ Quốc. Cho nên đừng phân biệt Dân Chủ hay Cộng Hoà, Tất cả tuy hai mà một vì ai cũng chỉ biết có quyền lợi của dân tộc và đất nước Hoa Kỳ mà thôi.

MỘT VÒNG NƯỚC MỸ NHÂN NGÀY ÐỘC LẬP HOA KỲ

            Là một quốc gia rộng lớn có diện tích bao trùm từ bờ Thái Bình Dương sang Ðại Tây Dương mênh mông vô tận. Sông Mississippi cùng với hai hợp lưu là sông Missouri và Red Rock dài 3741 ml hay 6019 km, đứng thứ 4 trên thế giới, sau sông Nile (Bắc Phi-6671 km), Amazon (Nam Mỹ-6300km) và Dương Tử (Trung Cộng-6276km) . Sông chảy từ bắc xuống nam phân chia nước Mỹ làm hai phần, phù sa bồi đắp tạo nên hai tiểu bang mang tên của nó ‘
MississippiMissouri‘. Gọi Hoa Kỳ là một quốc gia trong một lục địa, thật không ngoa chút nào vì sự đa dạng của nó. Nhiều làng xóm khu phố được thiết kế gần như đất tổ của di dân, chẳng hạn như thành phố Quincy (50.000 dân) có nhiều biệt thự kiến trúc theo kiểu Ðức nằm giữa những vườn cây cổ kính. Trong lúc đó ở Alexandria là thành phố nằm cạnh sông Potomac, kế thủ đô Washington thì xây cất theo lối Anh Cát Lợi với tường gạch màu huyết dụ

            Ðối với các tổng thống Mỹ khi còn tại chức thì sống trong Tòa Bạch Ốc tại Hoa Thịnh Ðốn. Ðây là một tòa nhà đồ sộ có tới 132 phòng, 35 nhà vệ sinh, 3 thang máy và tất cả những tiện nghi vật chất dành cho các bậc đế vương. Nhưng khi mãn nhiệm thì mạnh ai lo nấy, chẳng hạn như cựu TT Jimmy Carter về sống tại căn nhà riêng của mình mua trả góp từ năm 1960. Nhà của ông nằm kế thị trấn Plaince tiểu bang
Georgia. Ông sống đời giản dị, trong nhà không sắm đồ gì quý báu xa xỉ, còn những vật dụng thường nhật thì tự tay mình làm. Tuy tuổi tác đã cao nhưng TT Carter vẫn hoạt động xã hội không ngừng, để giúp cho những người nghèo, già và tàn tật bất hạnh.

            Ðối với TT Ronald Reagan lúc còn sinh tiền, khi tại chức Thống đốc CA và Tổng thống, ông sống trong công thự. Năm 1989 mản nhiệm kỳ ông mua một căn nhà tại thành phố thượng lưu Bel Air thuộc tiểu bang
California. Ngôi nhà là một dinh thự nhưng cất theo kiểu thôn quê với 3 phòng ngủ, 4 lò sưởi, 5 nhà vệ sinh và một hồ tắm. Còn TT Bush cha thì về lại cố hương ở Kennebunkport thuộc tiểu bang Maine nằm trên bờ Ðại Tây Dương. Ðây là căn nhà của tổ phụ đã xây dựng từ năm 1902 và được xây dựng thêm nhiều công trình như hồ tắm, sân golf, sân tennis, nhà dành riêng cho khách và một cây cầu nhỏ bắc trên bờ biển. Thú vui của TT Bush là câu cá, đánh golf, lái cano và cầu nguyện trong thánh đường.

            Nhưng tệ nhất là cựu TT Bill Clinton. Khi còn tại chức thống đốc
Arkansas và TT thì sống trong công thự. Năm 2001 về hưu sống tại ngôi nhà trị giá 1,7 triệu USD tại thành phố Chappaquq tiểu bang New York. Nhà này xây từ năm 1889 có 5 phòng ngủ, 4 phòng tắm, hồ bơi và chuồng ngựa.. Tháng 2-2001 vụ bê bối của Clinton bị bật mí và được báo chí khai thác tùm lum. Thế là bà vợ nổi tam bành, đã quăng hết đồ đạc và đuổi cựu tổng thống hào hoa ra khỏi nhà. Năm 2008 bà Clinton ra ứng cử tổng thống nên hai vợ chồng lại làm lành như trước.

            Du hành nước Mỹ, trước hết phải nói tới chốn thần tiên cực lạc không đâu bằng. Ðó là đảo quốc Hạ Uy Di, tiểu bang thứ 50 của Hiệp Chủng Quốc từ năm 1959. Ða số người Mỹ hay du khách ngoại quốc đều ao ước tới
Honolulu để nghĩ hè, tắm biển hay hưởng tuần trăng mật, cho dù đây là địa phương có giá sinh hoạt đắt đỏ nhất nước. Tới Honolulu để thăm lại di tích lịch sử về trận hải chiến giữa Mỹ-Nhật ngày 7-12-1941 tại Pearl Harbor mà xác của chiến hạm Arizona vẫn còn nằm yên trong vùng biển Thái Bình Dương, như là nhân chứng của thảm họa chiến tranh, qua cái chết của gần 4000 chiến sĩ đã hy sinh vì nước. Người Việt tị nạn Việt Cộng đã có mặt tại đảo quốc sau tháng 5-1975 khi VNCH bị sụp đổ. Ða số sống bằng nghề lái taxi, làm công nhân khách sạn và buôn bán đủ ngành. Ở đây đời sống thật giản dị hiền hòa, du khách lẫn ngưởi bản địa ai cũng thoải mái trong cách ăn mặc, theo truyền thống Hạ Uy Di.

            Tháng Bảy ở
California hình như mặt trời không muốn lặn. Thủ đô điện ảnh Mỹ Hollywood cho tới đầu thế kỷ XXI vẫn nguyên vẹn với nét lập dị thời thượng. Ðó là sự hiện diện của khu rừng trồng toàn một loại cây có gai tên Holly và khắp via hè dọc theo đại lộ Hoàng Hôn, đâu đâu cũng khắc đầy những ngôi sao năm cánh mang tên tuổi của những tài danh nổi tiếng trên màn bạc, sân khấu hay các đạo diễn phim trường. Los Angeles nay là thành phố lớn thứ nhì của Mỹ sau New York. Thành phố nổi tiếng với các vùng phụ cận như Hollywood, Beverly Hill, Chinese Theatre.. và nhất là khu giải trí lừng danh Disneyland, vương quốc của vua phim hoạt hình Walt Disney với nhiều khu giải trí riêng biệt dành cho mọi lứa tuổi.

           
San Jose là một thành phố nhỏ có nhiều người Việt trú ngụ. Vùng này khí hậu gần giống như Ðà Lạt tạo nên nếp sống thanh bình êm ả nên ai cũng thích, tuy rằng sinh hoạt không náo nhiệt như thủ đô của người Việt ở Little Sài Gòn, miền nam Cali nắng ấm. Kế cạnh San Jose là thành phố San Francisco có hơn 8 triệu dân, nổi tiếng với biển sạch và xanh mát, nơi đã bảo thủ được những chiếc tàu điện của hơn trăm năm trước, chạy bằng dây cáp và đường ray, lại có tiếng chuông khua leng keng mỗi khi tới một nhà ga nào đó

            California còn là vùng đất học, vì trong tổng số 12 viện đại học danh tiếng nhất hoàn cầu, thì Hoa Kỳ đã chiếm 8, trong số này có hai của tiểu bang Cali. Ðiều này cũng dể hiểu vì miền đất này đông dân nhất Hợp Chũng Quốc, với hơn 30 triệu người sinh sống tại đây, lại có một nền kinh tế cao và sung túc, cho nên hệ thống giáo dục được phát triển mạnh nhất nước. Ðó là hai dại học công lập Universite of Calif-Berkeley, thường được viết tắt là UC Berkeley, cùng với đại học tư Stanford, cả hai đều lớn mạnh. Hiện nay UC Berkeley có tới 1500 giáo sư giảng dạy và 30.000 sinh viên + nghiên cứu sinh đang theo học. Tường thành lập từ năm 1868, qua thời gian đã tạo được một bề dầy thành tích, qua hai lãnh vực trí thức và chuyên nghiệp, nhát là sự nghiên cứu khoa học, đã mang về cho trường các giải Nobel danh tiếng về Nguyên tử và tin học.

            UC Berkeley còn có lò phản ứng nguyên tử, do chính tiến sĩ J.R.Oppenheimer thực hiện, vì ông chính là cha dẻ cuả quả bom đầu tiên mà Mỹ chế tạo được vào năm 1945. Calif còn có 8 viện đại học khác, cùng có trình độ và tầm vóc ngang hàng với UC Berkeley, họp thành University of Calif (UC ) công lập, do một hội đồng quản trị và điều hành (Regent), đứng đầu là một chủ tịch và nhiều thành viên, trong đó có Thống đốc tiểu bang, cùng với các viện trưởng đại học liên hệ. UC đào tạo đủ trình độ như cử nhân ( Bachelor ố 4 năm), cao học (Master), tiến sĩ (Doctor).. có giá trị văn bằng, chẳng những tại Mỹ mà còn khắp thế giới. Ðiều này đối với các đại học khác tại Calif như UC San Diego, UC Los Angeles, UC Riverside, UC San Francisco, .. cũng không có gì khác biệt, tuy mỗi trường có riêng chuyên môn của mình.

            Song song hệ thống đại học công lập của liên bang, còn có hệ thống đại học của tiểu bang Calif (CSU), rãi rác từ nam lên bắc có 23 viện như Humbold, Hayward, Stanislaus, Monrerey Bay, San Diego.. chỉ đào tạo hai ngãch cử nhân và cao học mà thôi, tuy rằng trình độ giảng dạy, giữa hai viên đại học liên bang (UC) và tiểu bang (USC) đều giống nhau. Còn phải kể tới các đại học chuyên môn (College) và cộng đồng (Community College), đều thuộc hệ thống công lập hạng ba.

            Trong khi đó các đại học tư nhân được phát triển tự do, bao gồm 30 đại học hổn hợp (University) và Chuyên môn (College), trong số này có 10 trường của các giáo hội Thiên Chúa, Tin Lành và Thanh Giáo như Đại Học Sacramento, Los Angeles, đại học quốc tế.. nhưng nổi tiếng nhất của hệ thống này, vẫn là đại học Stanford. Viện thành lập năm 1891, hiện có 1400 giảng sư, 14000 sinh viên, 7 phân khoa, được xếp hạng trong 5 viện đại học danh tiếng nhất của nước Mỹ: Harvard, Berkeley, Cal Tech và Massachusetts Institute of Technology (MIT). Viện chuyên đào tạo giáo sư các ngành, giảng dạy tại các trường phổ thông của Mỹ. Tóm lại, trong hệ thống đại học tại tiểu bang Calif, 90% sinh viên là người địa phương, số còn lại từ các tiểu bang khác và ngoại quốc. Người gốc Châu Á theo học chưa tới 3% nhưng chiếm 8% là sinh viên giỏi, trong số này đứng đầu vẫn là người Việt tị nạn, Trung Hoa, Nhật Bản và Nam Hàn.

            Về hướng đông
Cali là thành phố Las Vagas mệnh danh khắp thế giới ‘ kinh đô của thần đổ bác’. Las Vagas chỉ mới chuyển mình chừng 30 năm trở lại, từ một thị trấn hoang vu nằm giữa sa mạc Nevada cằn khô gíó cháy, chỉ có đá sỏi và tơ trời. Thế mà mà qua bàn tay xây dựng của con người, ngày nay Las Vegas là kinh đô của cờ bạc, giải trí mọi vấn đề tuỳ theo túi tiền ném qua cửa sổ để thử thời vận, sau những ngày làm việc vất vả.

            Kế
Nevada là tiểu bang Wyoming nổi tiếng với khu bảo tồn đầu tiên của nước Mỹ được thành lập từ năm 1906. Tại đây có ngọn Black Hill với hai hang lớn là ‘Hang Gió và Hang Ðá Quý’, nhiều mõ vàng nên đã thu hút rất nhiều người khắp nước Mỹ tới đây tìm cơ hội ‘đổi đời‘ mà cao điểm là năm 1880. Xa hơn một chút là ngọn núi Tháp Quỷ với huyền thoại về một kho tàng trong lòng núi.

            Nằm trong trung tâm khu bảo tồn, núi Ðá Quỷ có hình dáng giống như một gốc cây mục khổng lồ đứng giữa vùng thung lũng sông Bella Fourche. Ðây là một ngọn núi lửa kỳ dị, đã xuất hiện cách đây hơn 100 triệu năm, do khoáng chất phonolite porphyry màu xám đỏ, hòa với đá lửa, pha lê và và đá felspar tạo thành. Vì trải qua thời gian dài bị mưa gió xâm thực nên núi càng ngày càng thấp dần.

            Từ xưa địa phương đã xem ngọn núi Tháp Quỹ như một chốn thiêng liêng nên không ai dám léo hánh tới. Tình trạng này đến ngày 4-7-1893 mới có hai người chủ trang trại kế cận tên William Roger và Willard Ripley dùng thang leo lên đỉnh núi và trở thành người đầu tiên chinh phục ngọn núi này. Sau đó nhiều người tới leo núi bằng dây thừng càng lúc càng đông suốt năm, ngoại trừ tháng 6 có lễ hội cúng thần núi.

            Theo huyền thoại từ ngàn năm trước, thì trong lòng núi có chứa một kho báu vô giá. Ðối với bộ tộc người da đỏ Kiowa sống gần núi, thường hay nhắc tới câu chuyện bảy cô gái vào rừng hái nấm thì gặp phải đàn gấu săn đuổi. Cuối cùng họ leo lên một hòn đá gần đấy và cầu nguyện thần núi giúp đở mới thoát được tai nạn và biến thành những ngôi sao. Bởi vậy núi mới có tên là ‘ Túp lều của gấu (Bear Lodge) ‘.Về chuyện kho báu cũng phát xuất từ câu chuyện ba người da đỏ từ xa đến đây săn bắn vì không để ý nên lạc đường vào tận chân núi Quỷ . Do đó họ đã vô tình phát hiện được một lối đi ngoằn nghèo dẩn sâu vào một hang động chứa đầy xác người. Cuối hang là một hồ nước mà xung quanh đầy đá và vàng. Ba người trên thu nhặt một phần số vàng và đem dấu kín cho đến khi qua đời mới thố lộ cho những người khác trong bộ tộc. Tuy nhiên vì lòng mê tín sợ thần núi nên cũng chẳng ai dám đá động đến kho vàng trong hang núi Quỷ.

            Khi người da trắng đến đây biết được câu chuyện về kho vàng trong lòng núi, đã nhiều lần tổ chức tìm kiếm nhưng không thấy gì và bí ẩn về kho báu trên tới nay vẫn còn là nan đề kể cả khoa học cũng không giải thích được.

            Về thành phố Dallas của tiểu bang Texas để chiêm ngưởng một công trình vĩ đại vô tiền khoáng hậu lớn nhất thế giới của Ðiêu khắc gia kiêm họa sĩ nổi tiếng Robert Summers, sinh năm 1940 tại thị trấn Glen Rose.. Ai cũng biết tiểu bang
Texas giàu có hôm nay nhờ hai nguồn lợi ‘ Bò và Dầu Hoả‘. Bởi vậy không ai ngạc nhiên khi đến thăm KhuCôngViênQuốcGiaPioneerPlaza rộng chừng 4,2 mẫu Anh, tại trung tâm thành phố, đối diện với Tòa thị chính. Nơi này về trước là vùng đất mang tên Shawnee Cattle Trail là một con đường qua lại của các chàng Cao Bồi Texas và đàn bò của họ từ khi người da trắng đến khai thác miền viễn tây vào năm 1854. Trong công viên có tất cả 39 con bò đúc bằng đồng đen sẩm to lớn như thật. Ngoài ra còn có tượng các chàng chăn bò đang phi ngựa với đầy đủ nón rộng vành, súng đạn, dây nhợ .. mà ta thường thấy trên màn ảnh.

            Dallas cũng là nơi mà TT John F Kennedy đã bị ám sát vào tháng 11-1963 tại Dealey Plaza, nơi chốn đã đi vào những trang sử cận đại của Hoa Kỳ. Tháng 6-2008 vừa qua, tiểu bang Texas càng nổi tiếng hơn khi hàng ngàn người Việt Tị Nạn Việt Cộng đã biểu tình phản đối tẩy chay và tố cáo tội ác của tên Việt gian Nguyễn tấn Dũng và đồng bọn khi mon men tới nơi này để tiếp tục lường bịp người và dư luận, hầu tiếp tục duy trì đảng cướp Mafia đỏ đang đô hộ đất nước và dân tộc Việt.

            Trước năm 1974,
New York có tòa nhà cao nhất thế giới. Ðó là Empire State Building với 102 tầng, cao 443m, nằm trên Ðại lộ thứ 5 , giữa khu thương mai Manhattan. Ðược hoàn thành bởi các Kiến Trúc Sư Shreve, Lamb và Harnon, thiết kế theo kiểu cách Art-Déco năm 1930. Những bộ phim ghê rợn loại King Kong được thực hiện tại đây.

            Từ sau khi Hai Tháp của Tòa Nhà World Trade Center bị 19 tên khủng bố Hồi giáo cực đoan dánh bom tự sát bằng máy bay, vào ngày 11-9-2001, làm chết gần 7000 người và sụp đổ toàn diện, thì Empire State Building lại trở thành tòa nhà cao nhất nước Mỹ. Ðây là nơi thu hút du khách trong và ngoài nước, khi tới thăm viếng thủ đô tài chánh vủa Hoa Kỳ, với những cảm giác mạnh , khi đứng trên hai đài quan sát tại tầng số 86 và 102., với hệ thống thang máy chuyển động rất nhanh. Ðài quan sát có song sắt bảo vệ ở phía ngoài,để tránh những tai nạn đáng tiếc. Nơi này cũng cấm hôn hít với lý do là nụ hôn sẽ tạo nên hiện tượng điện giật làm chết người. Từ đây du khach có thể chiêm ngưởng được toàn cảnh thành phố, trong phạm vi 120 km khi trời tốt, bằng không từ trên nhìn xuống chỉ thấy mây trắng mịt mùng, khói sương lãng đảng, khiến cho ta có cải cảm giác như đang sống trong ở cõi trên, quên đời quên tất cả.

            Theo thống kê, tính từ ngày được khánh thành vào năm 1931 tới nay, đã có hơn 80 triệu du khách tới thăm viếng tòa nhà nổi tiếng này, được xếp vào kỳ quan thứ 8 của thế giới,tốn hết 60.000 tấn thép, 1860 bậc thang dẫn từ dưới đất lên tới đỉnh ở tầng 102, hơn 5000 km đường dây điện thoại, 96 km đường ống dẫn nước và 6500 cửa kính, được lau chùi thường xuyên.

            New York có Rockerfeller Center , gồm 19 tòa cao ốc của tỷ phú Rockerfeler chuyên về thương mại, giải trí và buôn bán bất động sản. Ở đây còn có Viện Bảo Tàng Guggenheim là công trình xây dựng của Kiến trúc sư nổi tiếng nhất nước Mỹ và thế giới là Frank Lloyd Wright. Còn có Trung tâm tài chánh chứng khoán thế giới Wall Street, nằm trong một dãy phố hẹp, cổ kính New York Stock Exchange (thị trường chứng khoán NY), được hình thành từ năm 1792, từ 24 Hội viên lên tới 1300 ngày nay. Trên đại lộ Broadway náo nhiêt, còn có trung tâm kịch nghệ nỗi tiếng, thường trình diễn những tác phẩm nổi tiếng của thế giới. Trụ sở Liên Hiệp Quốc một trong những điểm thăm viếng của du khách, nay cũng được hạn chế tối đa để đề phòng khủng bố, sau ngày 9-11-2001

            Nhưng niềm tự hào của người dân Nữu Ước nói riêng và nước Mỹ, vẫn là Tượng Nữ Thần Tự Do, tay cầm ngọn đuốc sáng, để soi đường dẫn lối  cho các đoàn tàu vượt Ðại Tây Dương vào Hải Cảng Nữu Ước.

            Ðây là một trong những biểu tượng vĩ đại nhất của nước Mỹ, được đặt trên đảo Bedloe còn gọi là Liberty Island, bên bờ biển
New York. Tượng tượng trưng cho sự tự do, liêm chính và lòng nhân ái của người Mỹ khi lập quốc. Với chiều cao từ nền tới bó đuốc là 92,97m và trọng lượng 325 tấn, do Ðiêu khắc gia lừng danh người Pháp trong thế kỷ XIX là Augusste Bartholdiv thực hiện. Ðây là món quà quý giá của nước Pháp tặng cho người dân Mỹ để kỷ niệm Ngày Ðộc Lập Hoa Kỳ 4-7. Nhưng vì lúc đó Pháp đang có chiến tranh với Phổ, nên phải giao việc thực hiện tượng cho các hội từ thiện đãm trách.

             Vì công trình quá vĩ đại mà ngân khoản của chính phủ trợ cấp có giới hạn, nên công tác phải gián đoạn nhiều lần cũng như mất nhiều thời gian để tiết kiệm tiền.Vì vậy tới ngày 12-8-1876 chỉ mới hoàn thành xong cánh tay cầm ngọn đuốc của Nữ Thần. Ðể cho kịp thời gian, nhà điêu khắc phải đóng thùng gửi trước sang Mỹ, trong lúc tiếp tục những phần còn lại, mãi cho tới tháng 5-1884 mới xong.

            Tại Mỹ, dân chúng đã quyên góp được 250.000 USD để xây chiệc bệ đặt Tượng Nữ thần trên đảo Bedloe. Một buổi lễ trọng thể được tổ chức ngày 28-10-1886, để khánh thành pho tượng với sự tham sự đông đảo của đồng bào và các quan chức Chính phủ. Dịp này Ủy Ban Quốc Hội đã để một chiếc hộp màu đỏ, tượng trưng cho niềm tin, được niêm kín, trong đó có Bản Hến Pháp và Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Hoa Kỳ, dưới chân Nữ Thần Tự Do, như một nhân chứng lịch sử. Tên tuổi của Nhà Ðiêu khắc Pháp ‘ Auguste Bartholdiv được vinh danh. Từ năm 1931, Tượng lại được bảo trì cẩn mật và tô bồi thêm cho xứng đáng với ý nghĩa thiêng liêng. Riêng Bó đuốc trong tay Nử thần, luôn luôn cháy sáng, nhờ một hệ thống ống dẫn dầu cung cấp liên tục.

            Hằng năm Tượng Nữ thần đã thu hút du khách muôn phương tới đây chiêm ngưởng. Ði tàu từ đất liền ra đảo và sắp hàng để được thang máy đưa lên tận Vương Miện của Tượng, tha hồ chụp hình, ngắm cảnh. Nếu không muốn chờ đợi, thì tự leo 22 bậc thang để tới chân tượng Nữ thần, để mua những kỷ vật hay vào thăm khu bảo tàng trưng bày những hình ảnh liên hệ tới lịch sử của nước Mỹ.
 

            (.......)
           

- Mường Giang
(Viết tại Hawaii nhân Lễ Độc Lập 2011)

 

Hạ Uy Di Mường Giang
(30/06/2012 - 16396 lượt xem)