Nhìn lại phong cách dạy trẻ thơ của các cụ ngày xưa nhân kỷ niệm 130 năm ngày sinh của Thi sĩ Tản Đà

Nhìn lại phong cách dạy trẻ thơ của các cụ ngày xưa nhân kỷ niệm 130 năm ngày sinh của Thi sĩ Tản Đà

LTS: Tản Đà (1889-1939) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông.

Nhân ngày khai giảng năm học mới 2019-2020, chúng ta ôn lại bài thơ “Lên Sáu” của Thi sĩ Tản Đà nhân kỷ niệm 130 năm (1889-2019) ngày sinh của cụ và để mọi người cùng xem xem ngày xưa ông bà ta dạy trẻ thơ như thế nào.

Bài nầy do Huynh Trưởng Nghĩa Sinh Nguyễn Công Minh gởi tặng ngày 5/9/2019 - dẫn nguồn từ Bách khoa Từ điển Wikipedia và Fb Diệu Phúc.

---------o0o---------

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đã viết về Tản Đà như sau:

Tản Đà sinh ngày 19/5/1889 - mất ngày 7/6/1939 tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng với  bút danh Tản Đà.

Trong văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tác. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực. Đi khắp miền đất nước, ông đã để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Với những dòng thơ lãng mạn và ý tưởng ngông nghênh, đậm cá tính, ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại".

Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát và được biết đến như một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất.

Bài thơ "Lên Sáu" của Tản Đà đã được Fb Diệu Phúc ghi nhận sau đây. Bài thơ diễn tả phong cách dạy dỗ trẻ thơ của các cụ ngày xưa với chủ ý là cần học lễ nghĩa trước rồi mới học chữ nghĩa sau.

Lên Sáu

Sách quốc ngữ
Chữ nước ta,
Con cái nhà
Đều phải học.
Miệng thì đọc
Tai thì nghe
Chớ ngủ nhè
Chớ láu táu
Con lên sáu
Đang vỡ lòng
Học cho thông
Thầy khỏi mắng.

Trong trời đất
Nhất là người
Ở trên đời
Hơn giống vật
Con bé thật
Chưa biết gì
Còn ngu si
Phải dạy bảo
Cho biết đạo
Mới nên thân
Sau lớn dần
Con sẽ khá

Ai đẻ ta
Cha cùng mẹ
Bồng lại bế
Thương và yêu
Ơn nhường bao
Con phải ngẫm
Áo mặc ấm
Mẹ may cho
Cơm ăn no
Cha kiếm hộ
Cha mẹ đó
Là hai thân

Hai thân là
Là thân nhất
Trong trời đất
Không ai hơn
Con biết ơn
Nên phải hiếu
Nghĩa chữ hiếu
Đạo làm con
Con còn non
Nên học trước
Đi một bước
Nhớ hai thân

Con còn nhỏ
Có mẹ cha
Lúc vào ra
Được vui vẻ
Con còn bé
Mẹ hay chiều
Thấy mẹ yêu
Chớ làm nũng
Đã đi học
Phải cho ngoan
Hay quấy càn
Là chẳng hiếu.

Con còn bé
Mẹ hay lo
Ăn muốn cho
Lại sợ độc
Con ốm nhọc
Mẹ lo thương
Tìm thuốc thang
Che nắng gió
Con nghĩ đó
Sao cho ngoan
Hay ăn càn
Là chẳng hiếu

Anh em ruột
Một mẹ cha
Mẹ đẻ ra
Trước sau đó
Cùng máu mủ
Như tay chân
Nên yêu thân
Chớ ganh tị
Em coi chị
Cũng như anh
Trước là tình
Sau có lễ

Người trong họ
Tổ sinh ra
Ông đến cha
Bác cùng chú
Họ nội đó
Là tông chi
Cậu và dì
Về họ mẹ
Con còn bé
Nên dạy qua
Còn họ xa
Sau mới biết

Người trong họ
Có bề trên
Lạ hay quen
Đều phải kính
Có khách đến
Không được đùa
Ai cho quà
Đừng lấy vội
Ông bà gọi
Phải dạ thưa
Phàm người nhà
Không được hỗn

Con bé dại
Mãi vui chơi
Muốn ra người
Phải chăm học
Miệng đang đọc
Đừng trông ngang
Học dở dang
Đừng có chán
Học có bạn
Con dễ hay
Mến trọng thầy
Học chóng biết

Dạy con biết
Phép vệ sinh
Ăn quả xanh
Khó tiêu hoá
Uống nước lã
Có nhiều sâu
Áo mặc lâu
Sinh ghẻ lở
Mặt không rửa
Sinh u mê
Đang mùa hè
Càng phải giữ

Các giống vật
Thật là nhiều.
Như con hươu
Ở rừng cỏ
Như con chó
Nuôi giữ nhả
Con ba ba
Loài máu lạnh
Loài có cánh
Như chim câu
Còn loài sâu
Như bọ róm

Cây và cỏ
Có khác loài
Trông bề ngoài
Cũng dễ biết
Như cây mít
Có nhiều cành
Lúa, cỏ gianh
Có từng đốt
Còn trong ruột
Lại khác nhau.
Vài năm sau
Con biết kỹ

Đá bờ sông
Không sống chết
Không có biết
Không có ăn
Không người lăn.
Cứ nằm đây
Như đá cuội
Như đá xanh
Như mảnh sành
Như đất thó
Các vật đó
Theo loài kim

Các loài kim
Tìm ở đất
Nhất là sắt
Nhì là đồng
Làm đồ dùng
Khắp trong nước
Như vàng bạc
Càng quý hơn
Đúc làm tiền
Để mua bán.
Ai có vạn
Là người giàu.

Vốn xưa là
Nhà Hồng Lạc
Nay tên nước
Gọi Việt Nam
Bốn nghìn năm
Ngày mở rộng
Nam và Bắc
Ấy hai miền
Tuy khác tên
Đất vẫn một
Lào, Miên, Việt
Là Đông Dương

Đầu trị nước
Đức Kinh dương
Truyển Hùng Vương
Mười tám chúa
Qua mấy họ
Quân Tàu sang
Vua Đinh hoàng
Khai nghiệp đế
Trải Đinh, Lý
Đến Trần, Lê
Nay nước ta
Là nước Việt

Chữ nước ta
Ta phải học
Cho trí óc
Ngày mở mang
Muốn vẻ vang
Phải làm lụng
Đừng lêu lổng
Mà hư thân
Nước đang cần
Người tài giỏi
Cố học hỏi
Để tiến nhanh
Vừa ích mình
Vừa lợi nước
Chớ lùi bước
Là kẻ hèn.

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu

 

 

Nguyễn Công Minh
(07/09/2019 - 782 lượt xem)

Các bài viết khác cùng tác giả Nguyễn Công Minh
1 - Nồi cơm Nhan Hồi: Đừng vội kết án (24/04/2018 - 1007 lượt xem)
2 - Quan trọng là phần cuối (01/10/2017 - 815 lượt xem)